| Loạn sản phổi ở trẻ sơ sinh là bệnh phổi mãn tính của trẻ sơ sinh, thường xuất hiện ở những trẻ sinh non và có thể kèm theo nhiều biến chứng nguy hiểm.   Loạn sản phổi ở trẻ sơ  sinh là bệnh phổi mạn tính. Bệnh có thể dẫn đến những biến chứng nguy  hiểm như xẹp phổi, suy tim hay thậm chí là tử vong. Phát hiện sớm và  điều trị kịp thời có ý nghĩa rất lớn trong việc điều trị loạn sản phổi ở  trẻ em.
 
 Loạn sản phổi và một số biến chứng đi kèm
 
Bệnh phổi mạn tính (CLD) còn được gọi là loạn sản phổi phế quản  (bronchopulmonary dysplasia – BPD). Đây là hiện tượng đặc trưng bởi tình  trạng biểu mô của các phế quản nhỏ bị sừng hóa và hoại tử, làm giảm  chất hoạt động bề mặt (surfactant). Mô kẽ tăng sinh dạng sợi, dẫn đến  hiện tượng xơ hóa phổi.
 
  
 
 BPD ở trẻ sơ sinh có thể dẫn đến nhiều biến chứng nguy hiểm như:
 
 
    Xẹp phổi: Loạn sản phổi gây ra các tổn thương nhu mô phổi kéo dài,  xẹp phổi. Thậm chí là mất chức năng phổi và không có khả năng hồi phục;
 
Suy tim: Trẻ bị loạn sản phổi được thở máy liên tục và kéo dài, dẫn  đến hiện tượng tăng áp lực động mạch phổi. Từ đó làm ảnh hưởng tới chức  năng tim và có thể gây suy tim.
 
Tử vong: Trẻ sơ sinh bị loạn sản phổi sẽ lệ thuộc nhiều vào máy thở  và làm tăng nguy cơ bị nhiễm trùng. Khi bị nhiễm trùng, tình trạng bệnh  dễ chuyển biến xấu, diễn biến phức tạp và có nguy cơ tử vong cao.
 
 Nguyên nhân thường gặp
 
Nguyên nhân của loạn sản phổi là thông khí áp lực dương với áp lực  cao hoặc trong thời gian dài. Các yếu tố nguy cơ đáng kể bao gồm 
    Thông khí nhân tạo kéo dàiThở O2 nồng độ caoNhiễm trùng (ví dụ, nhiễm khuẩn ối hoặc nhiễm khuẩn huyết)Mức độ non tháng
 
  
 
 Các yếu tố nguy cơ khác:
 
 
 
    Bệnh khí phế thũng mô kẽÁp suất thở đỉnhthể tích khí lưu thông cuối lớnxẹp phế nang tái lạiTăng sức cản đường thởTăng áp lực động mạch phổiNam giớiChậm tăng trưởng trong tử cungGene di truyền nhạy cảm ngộ độc tai trong
 
 Phương pháp điều trị
 
Nguyên tắc điều trị loạn sản phổi ở trẻ sơ sinh là: Hỗ trợ hô hấp. Hạn chế dịch và sử dụng thuốc cho trẻ.
 
 
    Hỗ trợ hô hấp: Cung cấp Oxy cho trẻ với nồng độ thấp nhất sao cho  chỉ số SaO2 ở mức 90 – 95%. Nên lựa chọn phương pháp thở Oxy qua  cannula, giảm dần lưu lượng Oxy và chuyển dần qua thở Oxy gián đoạn  trước khi ngưng cho trẻ thở Oxy. Với những trẻ đang giúp thở, nên giảm  áp lực đường thở ở mức thấp nhất, giữ PaCO2 ở mức 45 – 55mmHg và SaO2 ở  mức 90 – 95% để tránh gây tăng thông khí phế nang;
 
Hạn chế dịch: Duy trì lượng dịch nhập vào cơ thể bé ở mức 130 – 150  ml/kg/ngày và tăng dần nếu tình trạng suy hô hấp của trẻ được cải thiện.
 
  
 
 
    Sử dụng thuốc
 
Theo dõi sức khỏe: Trong thời gian trẻ nằm viện, cần theo dõi chỉ số  SaO2 thường xuyên (kể cả lúc trẻ bú, ngủ). Xét nghiệm khí máu khi cần  thiết. Chú ý theo dõi trong giai đoạn còn giúp thở. Theo dõi ion đồ mỗi  ngày. Theo dõi trong giai đoạn sử dụng thuốc lợi tiểu. HCT xét nghiệm  kiểm soát nhiễm trùng thực hiện hàng tuần. Sau khi trẻ xuất viện, cần  tái khám định kỳ để theo dõi hô hấp và sự phát triển bình thường trong  thời gian 1 – 2 năm.
 
 BPD là một bệnh nặng, điều trị khó khăn. Thậm chí nó có thể gây tử  vong hoặc để lại di chứng trầm trọng tới sự tăng trưởng và phát triển  của trẻ. Phụ huynh cần sớm xác định nếu trẻ mắc bệnh. Đồng thời phối hợp  với bác sĩ trong việc điều trị bệnh. |